"Ông quan to, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không giấu sự nuối tiếc, bực bội, cả căm tức khi mình bị buộc về hưu giữa chừng, đang lúc kiếm ra nhiều bỗng lộc. Tiếc không thay đổi được thời gian, thời gian đã đóng đinh lên thân thể; hối không làm được như gã quan Tàu trước đây đổi 83 tuổi ra 38 tuổi để tại vị nhiều thập kỷ nữa, để hốt vàng, hốt bạc. Bao nhiêu cái tiếc, bao nhiêu cái tức, cái căm". (nhà thơ Đỗ Hoàng).
“ÔNG QUAN TO, NHÀ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM KHÔNG GIẤU SỰ NUỐI TIẾC, BỰC BỘI, CẢ CĂM TỨC KHI MÌNH BỊ BUỘC VỀ HƯU GIỮA CHỪNG”
"Ông quan to, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không giấu sự nuối tiếc, bực bội, cả căm tức khi mình bị buộc về hưu giữa chừng, đang lúc kiếm ra nhiều bỗng lộc. Tiếc không thay đổi được thời gian, thời gian đã đóng đinh lên thân thể; hối không làm được như gã quan Tàu trước đây đổi 83 tuổi ra 38 tuổi để tại vị nhiều thập kỷ nữa, để hốt vàng, hốt bạc. Bao nhiêu cái tiếc, bao nhiêu cái tức, cái căm". (nhà thơ Đỗ Hoàng).
_________________________
CÕI LẶNG (*) CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM - YẾU DƯỚI MỨC TRUNG BÌNH
Tập Cõi Lặng của Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2007. Tập có 56 bài, 9 bài thơ viết theo hình thức truyền thống (có bài lỗi vận – Tắm bến Hà Khê, Đọc thơ tứ tuyệt của Đỗ Mục, Người nằm bên Hồ Tây...), 44 bài viết theo “tân hình thức”, không vần không điệu, tức là Vô lối, 3 bài theo thể hiện đại – thơ tự do. Tập Cõi Lặng ra được nhiều người tìm đọc. Người ta tò mò là chính. Họ xem ông nhà thơ làm quan to tột đỉnh khi hồi hưu có như những ông quan xưa hồi hưu, có khác gì thường dân đang quằn quại khổ đau dưới một sự toàn trị không. Hoá ra ông “quan to” hồi hưu lại hậm hực, ấm ức, tiếc rẻ, khẩu khí có khi còn quá đáng hơn cả dân thường, bài Vô lối sau: “Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, cạc vi- dít, nắm đấm mi – crô. Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường... ...Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ...” (Bây giờ là lúc). Ông quan to, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không giấu sự nuối tiếc, bực bội, cả căm tức khi mình bị buộc về hưu giữa chừng, đang lúc kiếm ra nhiều bỗng lộc. Tiếc không thay đổi được thời gian, thời gian đã đóng đinh lên thân thể; hối không làm được như gã quan Tàu trước đây đổi 83 tuổi ra 38 tuổi để tại vị nhiều thập kỷ nữa, để hốt vàng, hốt bạc. Bao nhiêu cái tiếc, bao nhiêu cái tức, cái căm. (Nghĩ về mất chức mà đau Từ nay thôi hết xe tàu vi vo (Vè cụ Thượng mất chức – Dân gian) Làm quan đời nay nó hái ra toàn ngọc tạ vàng tấn, chứ không phải chỉ ba đấu gạo như tri huyện, nhà thơ Đào Tiềm xưa, và 40 đô la/tháng như Phó tổng thống, nhà thơ Rumani - Đimitrôva... nên các quan khát chức, khát quyền điên dại, oán trách đồng liêu hảm hại, oán trách tạo hoá phôi pha tuổi tác. Sự hồi hưu ở quê là một sự đi đày, chứ không phải là từ quan về vui thú điền viên như quan xưa: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Mà: “Tóc trắng như thời gian thích chữ lên trán Đày anh về quê Không thể chạy trốn số phận” (Nhặt ghi) Và như vậy hoá ra những bài thơ viết về quê hương, cố quận như: Làng Phao Võng, Cánh đồng buổi chiều, Thành phố sớm xuân, Viết cuối năm, Về quê đón tết... đều giả hết! Nguyễn Khoa Điềm không giấu mình nỗi đam mê quyền lực, đam mê làm quan đến nỗi Huế và Hà Nội thời giao thông hiện đại, xe con đời mới to chỉ đỉ 7 tiếng đồng hồ là đến nhà mà để lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông. Lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông không phải lo dân chống bão lụt, chống hạn hán, lo cầm quân đánh giặc ngoài biên thuỳ, mà lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông là cấm mạng, chặn tường lửa, cấm tư tưởng dân chủ, cấm những người” nhìn ra bốn phương rực rỡ văn minh, tức tối nước nhà cam đường hủ bại” lỡ vì: “Đã lâu anh chưa về Huế Hẹn vào thu rồi lỡ cả mùa đông Anh mải mê trên đường hoạn lộ Ngảnh về quê hư ảo một vầng trăng” (Viết cuối năm) Vì đam mê làm quan, đam mê quyền lực nên ông quan Nguyễn Khoa Điềm không giấu một thủ đoạn chính trị nào để đạt quyền chức: “Nhiều khi đá đá dạy ta mềm mỏng” (Hy vọng) Đến đây chúng ta nhớ tích cũ tay quan Lưu Sử Đức cũng bên Tàu. (Làm quan thì phải học Tàu). Ông bố muốn con làm quan to nên ra tình huống như nền giáo dục tiên tiến các nước hay ra tình huống cho sinh viên thực hành. Ông bố nói: - Nếu quan trên mắng mỏ nhổ nước bọt vào mặt con thì con phải làm sao? Lưu Sử Đức thành thực trả lời: - Con im lặng và sẽ lấy khăn lau đi! Ông bố giật nảy mình như đỉa phải vôi: - Không được! Không được! Hỏng hết bánh kẹo! Hỏng hết bánh kẹo! Cứ để vậy, cứ để vậy, cho nó tự khô! Nếu Lưu Sử Đức sồng lại thì phải đến học ông quan “mềm mỏng” Việt Nam Nguyễn Khoa Điềm thêm mấy chiêu nữa! Vì đam mê quyền lực, vì súng đẻ ra chính quyền (Mao Trạch Đông) nên tình thương con người trong thơ Nguyễn Khoa Điềm nhạt nhẽo, sống sượng, sáo rỗng, vô tình, không thật một chút nào. Những câu đại ngôn sau vừa kém thi pháp, vừa kém nhân đạo: “Người ơi, tôi yêu người tha thiết Tôi sống với người, chết vì người” (Cõi lặng) Nhiều nhà thơ ở Huế bình và chê Cõi Lặng là tình cảm vờ vịt. Thật không sai chút nào! Nhiều bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm viết theo kiểu Vô lối dưới vè như: Anh đợi, Ngồi với cây long não nhà bạn, Hoa quỳ vàng... “Vứt hết sách vở Hai tay bụi trần Núi cao anh trèo Sông sâu anh lội... (Anh đợi) Cõi lặng có nhiều bài thua cả những bài ở các tập thơ trước như bài Tháng tư: “ Tháng tư lá xà cừ xào xạc mặt đường Dãy tường cổ nảy những chùm lá mới Hà Nội thì thầm nghìn tuổi Mừng Đảng qua một mùa đại hội” (Tháng tư) “Tháng tư dông chuyển bồn chồn Hạt mưa vây ấm, nỗi buồn cách xa Phía em, phía của quê nhà Trắng là tóc mẹ, xanh là áo em!” (Đất ngoại ô) Trong Cõi Lặng Nguyễn Khoa Điềm lạm dụng từ Hán Việt chưa Việt hoá như: Vô ngôn, Hoạn lộ, Hư tự... “Bao giờ, nơi nào anh đọc được mình Qua nỗi đau nhân loại Vô ngôn Hư tự” (Những quyển sách)
Khách quan mà nói thì những bài thơ mà Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết theo thể thơ truyền thống khá hơn một chút, có thơ hơn một chút không phải như các bài ôp lối hủ nút, lởm khởm như: Mưa thu, Bạn thơ, Người nằm bên Hồ Tây, Lên núi thăm chùa...” “Ta ngồi như cội trúc Gội mưa thu bốn bề Nghĩ mình không lỗi hẹn Với người đang xa quê
Chỉ mong em trở lại Kịp hái chùm tóc tiên Cắm lên bình lam ngọc Mừng một ngày lãng quên” (Mưa thu) Cõi lặng là một tập sách yếu kém dưới mức trung bình.
Hà Nội ngày 1-2 – 2012 Đỗ Hoàng (*) Nhà xuát bản Văn học năm 2007
Dịch VÔ LỐI CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
CÕI LẶNG (*)
Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình Với nỗi buồn trong sạch
Cõi lặng. Không tiếng động nào khác
Người ơi, tôi yêu người tha thiết Tôi sống vì người, chết vì người
Cõi lặng. Tôi vượt qua ghềnh thác Đến những miền trong xanh... Ngày 17.1.2003 -- (*) In trong tập Cõi Lặng – NXB Văn học năm 2007
Viết liền văn xuôi:
CÕI LẶNG
Cõi lặng. Anh soi thật mình với nỗi buồn trong sạch. Cõi lặng, không một tiếng động nào khác - Tiếng đập trái tim anh. Người ơi, tôi yêu người tha thiết. Tôi sống với người, chết vì người. Cõi lặng, tôi vượt qua ghềnh thác đến những miền trong xanh.
Nhận xét: Đây là điển hình cho loại Vô lối đang thịnh hành. Nó tù mù, tờ mờ, chuột không ra chuột dơi không ra dơi. Nếu gọi là thơ thì là một sự xúc phạm rất lớn với thi ca! Khi chuyển những bài Vô lối qua cách viết kiểu văn xuôi mới biết các bài Vô lối ấy thì thấy nó kệch cỡm, bệnh hoạn biết nhường nào. Đúng là một quái thai của văn chương. Đấy là mới nhìn hình thức biểu hiện, chứ soi vào ý tứ, câu chữ và tu từ (hay là thi pháp) thì không biết gọi chúng là gì! Riêng hai câu đại ngôn “Người ơi, tôi yêu người tha thiết/ Tôi sống vì người, chết vì người” thì giống như con sói hú lên: “Cừu ơi, ta yêu Cừu tha thiết/ Ta sống vì Cừu, ta chết vì Cừu!” Dịcn sang thơ Việt:
CÕI LẶNG
Cõi lặng, anh soi thật mình Nỗi buồn trong sạch, trắng trinh giữa trời.
Cõi lặng, không tiếng nào rơi, Tiếng tim anh đập muôn đời nào yên!
Yêu người tha thiết, thiêng liêng, Nguyện cùng sống chết, đảo điên vì người!
Cõi lặng, ghềnh thác vượt rồi, Đến miền trong sạch, tuyệt vời xanh trong!
Đỗ Hoàng dịch
Hà Nội ngày 29 -1 – 2012 Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản
ANH ĐỢI (*)
Đến sớm một ngày Vượt trước thôi đường Cao hơn thói thường Anh đợi
Đánh đổ một đời Cuối đất cùng trời Anh đợi
Anh tìm em Từ cõi hư vô Đến phiên chợ trời Âm dương xanh thẳm Thương nhớ bồi hồi Anh đợi
Vứt hết sách vở Hai tay bụi trần Núi cao anh trèo Sông sâu anh lội Anh đi tìm em Mây chiều bạc tóc Thương nhớ lao lung Một thời trận mạc Một thời cấy trồng Anh là hạt thóc Em là cánh đồng Gieo bao thương nhớ Vẫn còn mênh mông
Còn chăng điều tốt Trong cuộc đời này? Còn bao nông mặn Em dành hai ta? Ngàn năm, trăm năm Anh mong, anh đợi Một ngày xuôi tay Đường xa để lại Anh còn ngoái lại Những lời hôm qua: Anh đợi! Ngày 27 – 9 -2006
Nhà thơ Vũ Quần Phương có bài Đợi “Anh đứng một giờ Đất lạ thành quen” Một sự phát giác từ hiện thực, rất hay, ai cũng biết nhưng không ai nói được. Bài Anh đợi của Nguyễn Khoa Điềm vô duyên hết chỗ nói. Nó vừa quê, vừa cổ lỗ sỉ, không có phát hiện gì mới, lại dưới cả vè thì đọc giả làm sao chấp nhập được?
Đỗ Hoàng Tạm dịch qua vè truyền thống người Việt:
VÈ ANH ĐỢI
Vè vẻ, vè ve Nghe vè anh đợi. Đến sớm một ngày Không thì trời tối. Vượt trước thôi đường Cao hơn thói thường Anh chờ, anh đợi
Anh tìm, tìm em Từ cõi hư vô Đến phiên chợ trời Âm dương sáng tối Thương nhớ bồi hồi Anh chờ, anh đợi.
Vở sách trôi nổi Hai tay bụi trần Núi cao anh lần Sông sâu anh lội Anh đi tìm em Mây chiều tóc rối Thương nhớ lao lung Chiến trường lạc lối Một thời cấy trồng Anh hạt thóc thối Em là cánh đồng Gieo bao thương nhớ Vẫn còn mênh mông!
Còn chăng điều tốt, Trong cuốc đời này? Còn bao nồng mặn Dành ta, ai hay? Ngàn năm, ngàn năm Anh mong, anh đợi Một ngày xuôi tay. Đường xa để lại Anh ngoái lần này, Những lời hôm qua! Vẫn còn chói lọi! Hà Nội ngày 29 – 1 - 2012
Ngyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:
NGỒI VỚI CÂY LONG NÃO NHÀ BẠN
Ngồi với tôi mỏi mê Anh quay vào bếp Xong nồi lục đục Mỗi âm thanh dễ nhận ra Củi – diêm - nước mắm Và những gì gian khó Không âm thanh
Tôi một mình Một nình với cây long não Cây long não già mà lá trẻ Như ta giữa cuộc đời này Cây long não lặng im Cây long não trịu trần Năm tháng bên nhau Nhận lấy phấn bụi bặm Trả ta hương lành Và một chút gì sâu xa Không rõ nữa nữa
Bây giờ cây tiếp chuyện tôi Gác một chân lên hè phố Chúng tôi nói về anh Những trang chứa biết đến của một người cầm bút...
Bên cầu Phủ Cam, tháng 5 năm 1982
Đỗ Hoàng dịch:
VỚI BẠN
Ngồi với tôi mải mê Anh lại quay vào bếp Tiếng song nồi, nhôm thép Âm thanh dễ nhận ra
Nước mắm, muối, diêm, cà... Vì những gì gian khó Chắng có một âm thanh!
Còn tôi chỉ một mình Một mình với long não Long não già lá trẻ Như ta cuộc đời này. Cây long não lặng im Một thân hình trần trụi Năm tháng ta bên nhau Nhận lấy phần bậm bụi Trả cho ta hương lành Chút sâu xa vời vợi Mà không còn rõ nữa.
Bây giờ cây tiếp tôi Gác chân lên hè phố Chúng tôi nói về anh Trang sách còn viết dở!...
Hà Nội ngày 29- 1 – 2012 Nhà thơ Đỗ Hoàng
Nguyễn Khoa Điềm Nguyên bản:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã mọc nghìn năm Thành phố trăm năm Anh đến một ngaỲ Đà Lạt trẻ Mà anh thì quá tuổi Hoa quỳ vàng Lặng im bên cửa
Hoa quỳ vàng Ái ngại Nở chờ anh
Đã sang thu? Là hạ? Vẫn là đông? Không cao thấp Sao chập chùng
Ẩn hiện Hoa quỳ vàng Nghiêng nghiêng Cánh mỏng Hồn cao nguyên Nương náu đến bao dung
Em thanh xuân Anh quá đỗi Ngại ngùng với sương gió Đượm buồm từng tấc cỏ Đà Lạt Anh có gì Để nhớ Sao âm thầm lưu luyến Tôi muôn xưa
Hoa quỳ vàng Em chợt đến Sau mưa Để chợt héo Trước ngày đông Tháng giá Anh chợt đến Và chợt về Xa lạ Chợt trăm năm Một khoảnh khắc Giao mùa Hoa quỳ vàng Hoa quỳ nở Như mưa. Ngày 22 .1. 1993
Nhận xét: Một ông trên 70 tuổi mang danh nhà thơ, giữ trọng trách quốc gia mà viết như thế này thì hoạ là điên loạn.
Dịch dễ hiểu:
HOA QUỲ VÀNG
Thông đã nghìn năm Phố thị trăm năm Anh đến một ngày Ơi! Đà Lạt trẻ. Anh thì quá thể Mà hoa quỳ vàng Lặng im bên cửa Là hoa quỳ vàng Chút gì ái ngại Nở chờ anh sang!
Là đã tới thu? Hay là đang hạ? Hay vẫn là đông Mịt mùng sương giá. Không cao, không thấp Mà sao vẫn chập chùng!
Mờ mờ ẩn hiện Ơi, hoa quỳ vàng Nghiêng nghiêng cánh mỏng Hớp hồm cao nguyên Chút gì nương náu Bao dung nhân duyên!
Em mãi thanh xuân Anh thì quá đỗi Ngại ngùng sương núi Tấc có đượm buồm Đà Lạt tơ vương.
Anh có gì nhớ Mà sao âm thầm Mà sao lưu luyến Tới buồn muôn xưa!
Hà Nội ngày 29 – 1- 2012 Đỗ Hoàng
Nhận xét: Bài này kém đến mức không muốn bàn nữa! Chí nguy! Chí nguy! - Đỗ Hoàng.